Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Thơ BA LAN - Adam Mickiewicz


Adam Bernard Mickiewicz (24 tháng 12 năm 1798 – 26 tháng 11 năm 1855) – thi hào dân tộc Ba Lan, được coi là một trong những nhà thơ lớn nhất của thơ ca lãng mạn thế giới.

Cuộc đời:
Adam Mickiewicz sinh ở Zaosie gần Navahrudak, Đế quốc Nga (nay là Belarus), là con trai của Mikołaj Mickiewicz một luật sư nghèo. Học Đại học Vilnius từ năm 1815. Tham gia vào việc thành lập nhóm thanh niên yêu nước và làm thơ cổ vũ cho phong trào này. Sau khi tốt nghiệp Đại học, làm giáo viên dạy học. Năm 1823 bị bắt vào tù vì tham gia hoạt động chính trị, năm 1824 được trả tự do. Từ năm 1824 đi đến nhiều thành phố như Sankt-Peterburg, Odessa, Moskva, Cremia.. làm quen với nhiều nhà cách mạng Tháng Chạp ở Nga. Từ năm 1829 đi ra nước ngoài. Sống ở Đức, Thụy Sĩ, Ý. Năm 1832 sang Paris, cộng tác với các nhà chính trị sống lưu vong của Ba Lan và Litva. Năm 1840 được phong giáo sư các ngôn ngữ Slavic của trường College de France. Năm 1855 Adam Mickiewicz đến Constantinople với ý định thành lập đội quân người Ba Lan giúp Anh, Pháp chống lại Nga hoàng nhưng ý định đang dở dang thì bị bệnh dịch tả và mất ngày 26 tháng 11.

Thơ ca:
Bài thơ dầu tiên Zima miejska in ở báo Tygodnik Wileński năm 1818. Tập thơ đầu Thơ (Poezje), xuất bản năm 1822 có bài giới thiệu Về thơ lãng mạn (O poezji romantycznej) trở thành tuyên ngôn của phái lãng mạn trong văn học Ba Lan. Sau đó in 4 tập thơ khác ở Nga. Thiên sử thi Pan Tadeusz (Pan Tadeusz czyli Ostatni zajazd na Litwie) viết trong các năm 1832-1834 in ở Paris năm 1834 được coi là kiệt tác. Adam Mickiewicz là người thể hiện ý chí của dân tộc Ba Lan, người đầu tiên nâng thơ ca Ba Lan lên ngang tầm các nền thơ khác của châu Âu.

Tác phẩm chính:
* Thơ (Poezje, 1822)
* Những bài sonnet Cremia (Sonety krymskie, 1826), thơ
* Konrad Wallenrod, 1828, trường ca
* Sách về dân tộc Ba Lan và hành hương Ba Lan (Księgi narodu polskiego i pielgrzymstwa polskiego, 1832), văn xuôi
* Tadeusz (Pan Tadeusz czyli Ostatni zajazd na Litwi, 1834, thiên sử thi



Một số bài thơ

NGHI NGỜ

Anh đau khổ khi không nhìn thấy em
Khi gặp em – rối bời anh đã chẳng
Nhưng nếu hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Thì anh buồn, anh cảm thấy cô đơn
Không làm sao trả lời được cho mình:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Khi ở xa nụ cười, ánh mắt của em
Hình bóng em, anh đã không tưởng tượng
Dù cố gắng, chỉ hoài công, phí uổng
Hình bóng rất gần tuyệt đẹp, lung linh
Anh không đoán ra đến tận bình minh:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh chịu đựng đã nhiều, nhưng dù thế
Em trong nỗi niềm cay đắng chẳng hình dung
Không mục đích, em không giữ con đường
Anh chẳng biết tìm đâu ra cánh cửa
Ai dẫn đường? Sao chẳng có lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh trao em sức khỏe, nếu em cần
Vì yên lặng của em, khổ đau anh chịu đựng
Và chẳng phải bằng những lời trống rỗng
Anh mong lặng yên, mong sức khỏe cho mình
Nhưng nguyên nhân của hẹn ước thề nguyền:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Có chạm đến chăng bàn tay kín thầm
Có lãng quên trong giấc mơ êm ái
Anh khó nhọc đến muôn đời, mãi mãi
Và nghi ngờ thức dậy giữa con tim
Và lí trí đòi hỏi một lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Bài thơ sáu khổ, không đọc cho anh
Người bạn nhà thơ - linh hồn báo mộng
Không biết từ đâu trên trang giấy trắng
Những tứ thơ, những vần điệu hiện ra?
Làm nức lòng, làm hứng khởi nhà thơ?
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?
 


Niepewność

Gdy cię nie widzę, nie wzdycham, nie płaczę,
Nie tracę zmysłów, kiedy cię zobaczę;
Jednakże gdy cię długo nie oglądam,
Czegoś mi braknie, kogoś widzieć żądam;
I tęskniąc sobie zadaję pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Gdy z oczu znikniesz, nie mogę ni razu
W myśli twojego odnowić obrazu?
Jednakże nieraz czuję mimo chęci,
Że on jest zawsze blisko mej pamięci.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Cierpiałem nieraz, nie myślałem wcale,
Abym przed tobą szedł wylewać żale;
Idąc bez celu, nie pilnując drogi,
Sam nie pojmuję, jak w twe zajdę progi;
I wchodząc sobie zadaję pytanie;
Co tu mię wiodło? przyjaźń czy kochanie?

Dla twego zdrowia życia bym nie skąpił,
Po twą spokojność do piekieł bym zstąpił;
Choć śmiałej żądzy nie ma w sercu mojem,
Bym był dla ciebie zdrowiem i pokojem.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Kiedy położysz rękę na me dłonie,
Luba mię jakaś spokojność owionie,
Zda się, że lekkim snem zakończę życie;
Lecz mnie przebudza żywsze serca bicie,
Które mi głośno zadaje pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czyli też kochanie?

Kiedym dla ciebie tę piosenkę składał,
Wieszczy duch mymi ustami nie władał;
Pełen zdziwienia, sam się nie postrzegłem,
Skąd wziąłem myśli, jak na rymy wbiegłem;
I zapisałem na końcu pytanie:
Co mię natchnęło? przyjaźń czy kochanie?


HÃY NGỦ NGON

Hãy ngủ ngon! Anh chia tay với em
Để thiên thần đưa em vào giấc mộng
Hãy ngủ ngon! Đắm chìm vào quên lãng
Vẻ lặng yên sẽ mang đến trong lòng.

Từng phút giây em hãy ở bên anh
Một bước đi, một lời, em hãy nhớ
Để hình dung theo từng đường nét nhỏ
Gọi anh về từ bóng tối đêm đen!

Hãy ngủ ngon! Cho anh nhìn mắt em
Và gương mặt, cho anh nhìn có được?
Hãy ngủ ngon! Cho anh hôn lên ngực!

Em đừng đi, cho anh nói hai lời
Hãy ngủ ngon!… Em đóng cửa mất rồi
Anh nói trăm lần: “ngủ ngon” - để em không ngủ được.


Dobranoc

Dobranoc! już dziś więcej nie będziem bawili,
Niech snu anioł modrymi skrzydły cię otoczy,
Dobranoc, niech odpoczną po łzach twoje oczy,
Dobranoc, niech się serce pokojem zasili.

Dobranoc, z każdej ze mną przemówionej chwili
Niech zostanie dźwięk jakiś cichy i uroczy,
Niechaj gra w twoim uchu; a gdy myśl zamroczy,
Niech się mój obraz sennym źrenicom przymili.

Dobranoc, obróć jeszcze raz na mnie oczęta,
Pozwól lica. - Dobranoc - chcesz na sługi klasnąć?
Daj mi pierś ucałować. - Dobranoc, zapięta.

- Dobranoc, już uciekłaś i drzwi chcesz zatrzasnąć.
Dobranoc ci przez klamkę - niestety! zamknięta!
Powtarzając: dobranoc, nie dałbym ci zasnąć.


GỬI VÀO ALBUM S. B.

Đã qua phút giây hạnh phúc của mùa hè
Khi ta nhẹ nhàng dạo chơi trên đồng cỏ
Ngắt những bông hoa, ta bó thành một bó
Hoa bây giờ nơi đó chẳng tìm ra.

Quên bão giông, bóng tối giữa trời xanh
ở nơi đó ánh vàng lên đồng cỏ
Tìm trang giấy cho bàn tay em nhỏ
Nhưng em ơi trang giấy thật khó tìm.

Thấy trang giấy, anh mang nó theo mình
Dù điều này em không còn trân trọng
Trang giấy này bàn tay anh sưởi ấm
Quà tặng cuối cùng anh gửi về em.
1824


W imionniku S.B.

Jaśniały chwile szczęśliwe, niestety!
Kiedy na błoniach był kwiatów dostatek,
Kiedy mi było łatwiej o bukiety
 Niżeli teraz o kwiatek.

Ryknęły burze, ciągłe leją słoty,
Trudno wynaleźć na ojczystej błoni,
Trudno wynaleźć, gdzie kwiat błyskał złoty,
 Listka dla przyjaznej dłoni.

Co wynalazłem, nich tobie poświęcę,
Racz wdzięcznie przyjąć, chociażby z tej miary,
Że był ten listek w przyjacielskiej ręce,
 Że to ostatnie są dary. 


PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG BẮC

Nơi ta sống trị vì cơn bão tuyết
Có ghen chăng, những kẻ ở phương nam?
Miền đất mêng mông, không có tận cùng
Hoa trong bình minh và con tim rực lửa
Nhưng ở đó họa mi giờ đang ngủ
Những bông hồng, phút chốc đã ngắn hơn
Lục địa khô khan nhưng ký ức giữ gìn
Về những kẻ nằm trong mồ yên ngủ
Quí đất đai những ai nằm trong mộ
Và nhân gian muôn thuở chẳng hề quên.
1825


Wschód i Północ

Porzuceni na swiata lodowatym końcu,
Nie zazdrośćmy krainom sąsiedniejszym słońcu:
Ich ląd kaszemirskiego ma barwę kobierca,
Kwiat z jedwabiu jutrzenki, z płomienia ich serca;
Lecz niech bulbul zabłyśnie - i wnet oko zmruży;
Wnet znikną w ziemi liście, w sercach pamięć róży.
A nasze lądy zimnym dochowują łonem
Pamięć istot straconych przed lat milijonem.
Jeśli ziemia tak długo chowa martwy szczątek,
Jakież są nasze serca - dla żywych pamiątek!


GỬI LAURA

Vừa thấy em, anh đã bừng cháy lên
Thấy người quen trong đôi mắt xa lạ
Đôi má em ửng lên một màu hồng
Như buổi bình minh hoa hồng vừa nở. 

Em vừa hát – anh đã tuôn dòng lệ
Tiếng hát thấu lòng, lay động con tim
Như thiên thần giữa không gian rộng mở
Nguyện hồn ai, bỗng gọi đúng tên mình.

Em thân yêu, em hãy mở tấm lòng
Anh không cần quan tâm vì số kiếp
Và những lời đàm tiếu của đám đông:

Rằng anh phải bỏ, vô vọng trong tình.
Dù kết hôn với người bằng thể xác
Thì hồn em đã gắn với hồn anh. 

Do Laury

Ledwiem ciebie zobaczył, jużem się zapłonił,
W nieznanym oku dawnej znajomości pytał;
I z twych jagód wzajemny rumieniec wykwitał,
Jak z róży, której piersi zaranek odsłonił.

Ledwieś piosnkę zaczęła, jużem łzy uronił,
Twój głos wnikał do serca i za duszę chwytał;
Zdało się, że ją anioł po imieniu witał
I w zegar niebios chwilę zbawienia zadzwonił.

O luba! niech twe oczy przyznać się nie boją,
Jeśli cię mym spojrzeniem, jeśli głosem wzruszę;
Nie dbam, że los i ludzie przeciwko nam stoją,

Że uciekać i kochać bez nadziei muszę.
Niech ślub ziemski innego darzy ręką twoją,
Tylko wyznaj, że Bóg mi poślubił twą duszę.



CHUYỆN TRÒ

Em thân yêu! 
Biết lấy gì để trò chuyện với em
Biết lấy gì để cùng em chia sẻ
Hòa nhập hồn vào nhau ta không thể
Còn chia hồn tôi thành những lời suông
Mà trước khi chúng chạm đến hồn em
Đã tắt trên môi, tan trong không khí?

“Anh yêu em!” – một trăm lần như thế
Làm em buồn, em tức giận mà thôi
Rằng không biết cách thể hiện tình tôi
Không biết nói ra lời, không thể hát
Như người hôn mê, tôi không đủ sức
Để chứng minh máu nóng chảy trong người. 

Tôi lãng phí đôi môi này vô ích
Và bây giờ muốn kết với môi em
Để cho con tim rộn ràng lại đập
Với những thở dài, với những nụ hôn
Và trò chuyện suốt giờ, ngày, tháng, năm
Đến khải huyền, thế giới này kết thúc. 
1825

Rozmowa

Kochanko moja! na co nam rozmowa?
Czemu, chcąc z tobą uczucia podzielać,
Nie mogę duszy prosto w duszę przelać?
Za co ją trzeba rozdrabiać na słowa,
Które nim słuch twój i serce dościgną,
W ustach wietrzeją, na powietrzu stygną?

 Kocham, ach! kocham, po sto razy wołam:
A ty się smucisz i zaczynasz gniewać,
Że ja kochania mojego nie zdołam
Dosyć wymówić, wyrazić, wyśpiewać;
I jak w letargu, nie widzę sposobu
Wydać znak życia, bym uniknął grobu.

 Strudziłem usta daremnem użyciem:
Teraz je z twemi chcę stopić ustami,
I chcę rozmawiać tylko serca biciem,
I westchnieniami i całowaniami,
I tak rozmawiać, godziny, dni, lata,
Do końca świata i po końcu świata.



GIÁ MÀ ANH

Giá mà anh thành dải ruy băng vàng
Để trên vầng trán của em tỏa sáng
Giá mà anh trở thành chiếc áo choàng
Dù mỏng manh vẫn đè lên ngực ấm. 

Để anh sẽ lay động trái tim em
Có đáp lại trái tim này, hay chẳng
Để ngực em anh nâng lên hạ xuống
Và nghe theo từng hơi thở của em.  

Giá mà anh được trở thành cơn gió
Yêu cuộc đời, bay lượn giữa trời xanh
Trên con đường nhiều bông hoa thắm đỏ
Sẽ ve vuốt hoa hồng và vuốt ve em. 

Có thể Chúa Trời trong ngày phán xét
Sẽ đánh giá cao công việc của anh:
Ngài ban cho anh một niềm hạnh phúc –
Sẽ biến anh trở thành trái tim em. 

Do

Gdybym się zmienił w wstęgę złocistą,
Co na twem czole połyska,
Gdybym się zmienił w tę szatę mglistą,
Co piersi twoje przyciska —

 Drżeniabym serca twojego badał,
Czy nie odpowie mojemu,
Z twojem się łonem wznosił i spadał,
Posłuszny tchnieniu twojemu.

 Gdybym się zmienił w wietrzyk skrzydlaty,
Co dysze w pogodnem niebie,
W drodzebym mijał najświeższe kwiaty,
A pieścił różę i ciebie.

 Może nakoniec Bóg litościwy
Pracęby moją ocenił,
Może nakoniec byłbym szczęśliwy,
I w twe się serce zamienił.



GHI VÀO ALBUM

Mình buông tay về những phía khác nhau
Suy nghĩ của ta trong đời cũng khác
Theo hướng khác nhau nhìn từng đôi mắt
Biết làm sao mình đến được với nhau?

Như những ngôi sao dáng vẻ khác nhau
Và mỗi ngôi lại trôi về một phía
Trong thế giới đầy đớn đau khổ ải
Chẳng yên bình, ta biết phải làm sao.

Kẻ lưu vong muôn thuở có điều chi
Tốt hay xấu – chẳng biết gì đang đợi
Sự ghê tởm làm cho ta gần lại
Gắn kết yêu thương bằng những hận thù.

Do*, w sztambuch

Ku różnym stronom ściągnęliśmny dłonie,
W różnych mieszkały światach nasze myśli,
Oczy ku różnej wyglądały stronie,
Jakże, o luba, ku sobieśmy przyszli?

 Jak gwiazdy, równe wielkością i kształtem,
Do przeciwnego wyrzucone biegu,
Kiedy je niebo jednostajnym gwałtem
Wiecznie odtrąca od każdego brzegu,

 Wieczni wygnańcy z powszechnego świata,
Jestże to dla nich szkodą czy korzyścią,
Że wstręt ku wszystkim znowu je pobrata
I że się muszą kochać... nienawiścią?...


GHI VÀO ALBUM Z

Khi em buồn nhìn thấy bao con sóng
Ném chiếc thuyền con, con sóng bạc đầu
Đừng để trái tim thiên thần lo lắng
Vì những buồn lo, tuyệt vọng, khổ đau
Trong giờ phút, khi mà con sóng lớn
Giật chiếc thuyền con ra khỏi con tàu. 

Khi tất cả mọi điều trên sóng nước
Có thể xảy ra thì lo lắng làm chi
Thà cứ đưa mắt nhìn về phía trước
Để tìm cách chống lại những hiểm nguy
Còn hơn là em cứ đứng trên bờ
Nhìn ra biển đếm những gì mất mát.

1825

Żeglarz (W imionniku Z)

Ilekroć ujrzysz, jak zhukana fala
Po głębiach barką przerzuca tułaczą:
Niech się anielskie serce nie użala
Nad płynącego trwogą i rozpaczą!
Tę barkę wicher odbił od okrętu,
Na którym żeglarz swe nadzieje złożył;

Jeżeli wszystko jest pastwą odmętu,
Czegóżby płakał, o coby się trwożył?
Lepiej mu pośród żywiołów bezrządu
Walczyć co chwila z nowymi przygody,
Niż gdyby wybrnął i z cichego lądu
Patrzył na morze i liczył swe szkody.


LẠI TÌM VỀ EM

Khi giữa trời chim bay đi từng dãy
Tránh mùa đông, chim cất tiếng thở than
Em đừng trách chim, bởi đến mùa xuân
Theo đường quen chim lại bay về đấy.

Nhưng nghe giọng của chim buồn, em hãy nhớ
Hy vọng trong anh vẫn tỏa sáng nhọc nhằn
Trên đôi cánh vui mừng anh từ phương nam
Theo hướng bắc lại tìm về em đó!
1829


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét