Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Thơ BỒ ĐÀO NHA - Camões + Pessoa


Luís Vaz de Camões (khoảng 1524 – 10 tháng 6 năm 1580) – nhà thơ Bồ Đào Nha, tác giả của thiên sử thi Os Lusíadas nổi tiếng. Người Bồ Đào Nha coi Os Lusíadas của Camões quan trọng đối với tiếng Bồ giống như người Italia coi Thần Khúc của Dante đối với tiếng Ý hay như người Việt Nam coi Truyện Kiều của Nguyễn Du đối với tiếng Việt vv…  

Tiểu sử:
Tư liệu về cuộc đời của Camões có rất ít và thậm chí là mâu thuẫn với nhau. Luís de Camões được cho là sinh năm 1524 ở Lisbon. Ông ngoại của nhà thơ lấy người có họ hàng với Vasco da Gama – nhà chinh phục nổi tiếng thế giới. Mẹ ông - Ana de Sá e Macedo mất sớm nên bố ông - Simão Vaz de Camões kết hôn lần thứ hai rồi đi sang Ấn Độ làm thuyền trưởng và mất ở đó.

Camões học ở trường dòng, sau đó học lên Đại học chuyên về ngôn ngữ và văn học Latinh, Hy Lạp, La Mã, Tây Ban Nha. Do tình yêu với một cô gái đẹp dẫn đến một số vụ lùm xùm buộc ông phải rời Lisbon khi chưa học xong Đại học.

Năm 1549 ông vào phục vụ quân đội và được trở lại Lisbon năm 1551. Trong một ngày lễ tôn giáo Camões đã làm một vị chức sắc của chính quyền bị thương nên phải vào tù 9 tháng, sau đó phải đi sang Ấn Độ phục vụ. Ở Ấn Độ, ông tham gia một số trận đánh, rồi làm thơ, đi về Thánh địa Mecca. Ông bắt đầu viết Os Lusíadas trong thời gian này. Năm 1556 ông được cử đi sang Macao. Từ Macao đi sang Xiêm và bị lạc vào vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay của Việt Nam. Cuối cùng ông trở về Goa, Ấn Độ và sau đó, trở về Lisbon vào năm 1570. Năm 1572 ông in thiên sử thi Os Lusíadas ở Lisbon.

Luís de Camões mất ngày 10 tháng 6 năm 1580 vì bệnh dịch hạch. Hiện tại ông được chôn cất gần vua Sebastião và nhà chinh phục vĩ đại Vasco da Gama ở Tu viện Jeronimos trong giáo xứ Belém ở Lisbon.

Ngày mất của Luís de Camões (10 tháng 6) được gọi là ngày Bồ Đào Nha. Tên của ông được đặt cho một miệng núi lửa trên sao Thủy và là tên của một Giải thưởng Văn học lớn ở các nước nói tiếng Bồ (Angola, Bồ Đào Nha, Brasil, Cabo Verde, Đông Timor, Liên minh châu Âu, Guiné-Bissau, Macao, Mozambique, São Tomé và Príncipe).

Tác phẩm của Luís de Camões được dịch rất phổ biến trên thế giới. Một số bài Soneto và kiệt tác Os Lusíadas cũng đã được trích dịch ra tiếng Việt.

Một số bài thơ


TẤT CẢ ĐỔI THAY

Thời gian thay đổi, ước mơ thay đổi
Đời đổi thay, lòng tin cũng đổi thay
Mọi hiện tượng tồn tại dưới mặt trời
Đều thay đổi để tìm chất lượng mới.

Ta nhìn ra sự mới mẻ khắp nơi
Nhưng khác nhau trong những niềm hy vọng
Từ niềm vui – giờ chỉ còn hoài niệm
Từ nỗi đau – chỉ còn nỗi ngậm ngùi

Mùa xuân sẽ thay cho mùa đông thôi
Thảm cỏ xanh mọc lên từ tuyết trắng
Và chết đi, khi đến hạn đến thời

Cuộc sống cứ thế đổi thay từng ngày
Tôi cảm thấy một điều rất kinh khủng:
Khi không đổi thay mọi thứ trên đời.

Mudam-se os tempos, mudam-se as vontades

Mudam-se os tempos, mudam-se as vontades, 
Muda-se o ser, muda-se a confiança; 
Todo o mundo é composto de mudança, 
Tomando sempre novas qualidades. 

Continuamente vemos novidades, 
Diferentes em tudo da esperança; 
Do mal ficam as mágoas na lembrança, 
E do bem, se algum houve, as saudades. 

O tempo cobre o chão de verde manto, 
Que já coberto foi de neve fria, 
E em mim converte em choro o doce canto. 

E, afora este mudar-se cada dia, 
Outra mudança faz de mor espanto: 
Que não se muda já como soía.



YACOB CƯỚI VỢ

Yacob giúp việc cho Laban bảy năm
Không vì ông, mà vì cô con gái
Nàng Rakhel có dung nhan tuyệt mỹ
Vốn từ lâu đã yêu trộm nhớ thầm.

Chàng làm việc, mong thời gian trôi nhanh,
Chàng hy vọng âm thầm, mong ngày cưới
Nhưng ông bố của Rakhel lừa dối
Đem gả Lêa thay thế cho nàng.

Nhưng chàng chăn thú chung thủy với nàng
Bèn nói với bố Rakhel như vậy:
Cho con xin phụng sự tiếp bảy năm

Con sẵn sàng chăn thú suốt đời mình
Vì tình yêu, dù cuộc đời ngắn ngủi
Trong khi tình yêu bất diệt, vĩnh hằng!
________________________
*Bài thơ dựa theo tích Jacob cưới vợ trong Kinh Thánh (Sáng Thế Ký, XIX, 15-30).

Sete anos de pastor Jacob servia

Sete anos de pastor Jacob servia
Labão, pai de Raquel, serrana bela;
Mas não servia ao pai, servia a ela,
E a ela só por prémio pretendia.

Os dias, na esperança de um só dia,
Passava, contentando-se com vê-la;
Porém o pai, usando de cautela,
Em lugar de Raquel lhe dava Lia.

Vendo o triste pastor que com enganos
Lhe fora assi negada a sua pastora,
Como se a não tivera merecida;

Começa de servir outros sete anos,
Dizendo: – Mais servira, se não fora
Para tão longo amor tão curta a vida!



TÌNH LÀ NGỌN LỬA

Tình là ngọn lửa không ai nhìn thấy
Là vết thương mà cảm thấy như không
Là sự bất mãn luôn luôn hài lòng
Là nỗi đau nhưng không hề có hại.

Là mong muốn khi không mong gì cả
Là sự cô đơn giữa chốn người đông
Là sự hài lòng khi chẳng hài lòng
Là đam mê để mất khi suy nghĩ.

Là sự tự nguyện trở thành nô lệ
Phụng sự người, kẻ vừa chiến thắng mình
Và chung thủy dù trở thành cát bụi

Nhưng nếu như tự mâu thuẫn chính mình
Làm sao yêu, khi tình yêu đã chọn
Biết tìm đâu đồng điệu của trái tim?

Amor é um fogo que arde sem se ver

Amor é um fogo que arde sem se ver,
é ferida que doi, e não se sente;
é um contentamento descontente,
é dor que desatina sem doer.

É um não querer mais que bem querer;
é um andar solitário entre a gente;
é nunca contentar-se de contente;
é um cuidar que ganha em se perder.

É querer estar preso por vontade;
é servir a quem vence, o vencedor;
é ter com quem nos mata, lealdade.





Fernando Pessoa, tên khai sinh: Fernando António Nogueira Pessoa (13 tháng 6 năm 1888 – 30 tháng 11 năm 1935) – nhà thơ, nhà văn, dịch giả, nhà phê bình văn học Bồ Đào Nha, được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Anh, tiếng Pháp. Pessoa là một nhà văn sung mãn, không chỉ ký tên riêng của mình, ông còn dùng đến bảy mươi lăm tên khác. Ông không gọi chúng là bút danh mà gọi là heteronyms.

Tiểu sử:
Fernando Pessoa sinh ở Lisbon. Bố là Joaquim de Seabra Pessoa làm việc ở Bộ Tư pháp, đồng thời là nhà phê bình âm nhạc cho báo Diário de Notícias. Năm 1893 bố mất vì bệnh lao, năm 1895 mẹ  là Maria Magdalena Pinheiro Nogueira tái giá với João Miguel dos Santos Rosa, là lãnh sự Bồ Đào Nha ở Durban, Nam Phi.

Fernando Pessoa học tiểu học và trung học ở Durban, sớm bộc lộ năng khiếu về văn chương, rất yêu thơ của các nhà thơ cổ điển Anh như Shakespeare, Milton, Byron, Keats, Shelly, Tennyson… Thời gian này Pessoa làm thơ và viết văn bằng tiếng Anh. Năm 1903 được giải thưởng của Nữ hoàng Victoria về Văn chương.

Năm 1905 Pessoa trở về Bồ Đào Nha, vào học khoa Ngôn ngữ của Đại học Lisbon nhưng bỏ học giữa chừng. Năm 1907 bà nội mất, Pessoa được hưởng một món tiền thừa kế cho phép chàng trai trẻ mở một nhà in nhỏ nhưng rồi cũng bị phá sản trong một thời gian ngắn sau đấy. Từ năm 1907 ông làm nghề dịch thuật nhưng phần lớn thời gian vẫn dành cho sáng tác. Các năm 1914 – 1916 ông là cây bút phê bình nổi tiếng của tạp chí Orpheu.

Fernando Pessoa mất ngày 30 tháng 11 năm 1935 ở Lisbon. Những lời cuối cùng đang viết dở bằng tiếng Anh: “I know not what tomorrow will bring…(Tôi không biết ngày mai sẽ mang đến điều gì… ).

Năm 1985, kỷ niệm 50 năm ngày mất, tro cốt của ông được đưa về an táng tại Tu viện Jerónimos nổi tiếng ở Lisbon.

Di sản:
Ngoài các bài thơ và các bài tiểu luận in rải rác trong suốt cuộc đời của nhà thơ, chỉ có một tập thơ Thông điệp (Mensagem, 1934) được xuất bản bằng tiếng Bồ Đào Nha. Bằng tiếng Anh ông in được trường ca Antinous35 bài sonnets cùng đều năm 1918. Năm 1921 ông xuất bản 2 tập thơ bằng tiếng Anh: InscriptionsEpithalamium. Thơ bằng tiếng Pháp chỉ được xuất bản sau khi chết và Toàn tập tác phẩm của ông được xuất bản trong các năm 1942-1946.

Khi còn sống, Fernando Pessoa chỉ được một số ít người biết đến. Người đương thời không mấy hiểu về tác phẩm của ông. Chỉ nhiều năm sau khi chết mới được công nhận là một bậc thầy ngôn ngữ của Bồ Đào Nha. Nhà phê bình người Mỹ Harold Bloom đặt Fernando Pessoa ngang hàng cùng với Pablo Neruda, nhà thơ Chilê đoạt Giải Nobel Văn học năm 1971.

Một số bài thơ


Tập thơ Người chăn thú đang yêu - O Pastor Amoroso: 

1.CHỈ BÂY GIỜ KHI CẢM THẤY YÊU TÌNH

Chỉ bây giờ, khi cảm thấy yêu tình
Tôi quan tâm những gì có mùi hương.
Tôi không nghĩ rằng hoa có mùi trước đó
Chỉ bây giờ ngửi mùi hoa, tôi thấy điều mới mẻ.
Tôi biết hoa tồn tại, khi ngửi thấy mùi hương
Rằng những thứ kia vẫn tồn tại tự mình.
Nhưng bây giờ tôi cảm nhận từ phía sau hơi thở
Hôm nay tôi nhận ra dễ chịu với mùi hương
Đôi khi tôi thức dậy ngửi mùi hương trước khi nhìn thấy nó.

Agora que sinto amor (23-7-1930)

Agora que sinto amor
Tenho interesse no que cheira.
Nunca antes me interessou que uma flor tivesse cheiro.
Agora sinto o perfume das flores como se visse uma coisa nova.
Sei bem que elas cheiravam, como sei que existia.
São coisas que se sabem por fora.
Mas agora sei com a respiração da parte de trás da cabeça.
Hoje as flores sabem-me bem num paladar que se cheira.
Hoje às vezes acordo e cheiro antes de ver.


2.TÌNH YÊU LÀ MỘT SỰ ĐỒNG HÀNH

Tình yêu là một sự đồng hành.
Tôi đã không còn có thể đi chỉ một mình
Bởi vì đi trong sự cô đơn tôi không còn có thể. 
Một ý nghĩ hữu hình làm cho tôi đi nhanh hơn
Và nhìn thấy ít hơn, đồng thời thích nhìn ra mọi thứ.
Ngay cả thiếu vắng tình, thứ cùng tôi đồng hành.
Tôi yêu tình đến mức không biết làm sao muốn nó.

Nếu không thấy tình, tôi hình dung mình như ngọn cây cao.
Nhưng hễ thấy tình, tôi rùng mình, lãng quên khi tình từ giã.
Tôi là một sức mạnh nào đó, nhưng khi tình yêu rời bỏ.
Cả thực tại nhìn tôi như bông hướng dương với khuôn mặt tình ở giữa đồng hoa.

O amor é uma companhia (10-7-1930)

O amor é uma companhia.
Já não sei andar só pelos caminhos,
Porque já não posso andar só.
Um pensamento visível faz-me andar mais depressa
E ver menos, e ao mesmo tempo gostar bem de ir vendo tudo.
Mesmo a ausência dela é uma coisa que está comigo.
E eu gosto tanto dela que não sei como a desejar.

Se a não vejo, imagino-a e sou forte como as árvores altas.
Mas se a vejo tremo, não sei o que é feito do que sinto na ausência dela.
Todo eu sou qualquer força que me abandona.
Toda a realidade olha para mim como um girassol com a cara dela no meio.


3.NGƯỜI CHĂN THÚ ĐÁNH MẤT CHIẾC GẬY CỦA MÌNH

Người chăn thú đánh mất chiếc gậy của mình
Và đàn cừu nằm rải rác trên sườn núi chênh vênh
Nhiều người nghĩ rằng chàng không chạm đến cây sáo mà chàng mang theo để thổi.
Không ai xuất hiện, cũng không ai biến mất vừa nãy
Không bao giờ chàng còn tìm ra cây gậy của mình.
Người này chửi rủa, người kia gom những con thú của chàng.
Hóa ra là không có một ai yêu người chăn thú cả.
Khi chàng lên dốc núi, dưới thực tại giả, chàng nhìn ra mọi thứ:
Thung lũng mênh mông, khắp nơi tràn ngập một màu xanh
Những ngọn núi xa xa, và bầu trời và gió với những cánh đồng
Chàng cảm thấy không khí mở ra nhưng với nỗi đau và tự do trong ngực thở.

O pastor amoroso perdeu o cajado, (10-7-1930)

O pastor amoroso perdeu o cajado,
E as ovelhas tresmalharam-se pela encosta,
E, de tanto pensar, nem tocou a flauta que trouxe para tocar.
Ninguém lhe apareceu ou desapareceu. Nunca mais encontrou o cajado.
Outros, praguejando contra ele, recolheram-lhe as ovelhas.
Ninguém o tinha amado, afinal.
Quando se ergueu da encosta e da verdade falsa, viu tudo;
Os grandes vales cheios dos mesmos verdes de sempre,
As grandes montanhas longe, mais reais que qualquer sentimento,
A realidade toda, com o céu e o ar e os campos que existem, estão presentes.
(E de novo o ar, que lhe faltara tanto tempo, lhe entrou fresco nos pulmões)
E sentiu que de novo o ar lhe abria, mas com dor, uma liberdade no peito.


4.SUỐT ĐÊM KHÔNG NGỦ

Suốt đêm không ngủ, tôi nhìn ra hình bóng của người
Nhưng lại không giống với cái người mà tôi gặp gỡ.
Cố nhớ lại những gì khi người trò chuyện với tôi
Trong từng ý nghĩ, tôi nhận ra người ấy đổi thay.
Yêu – nghĩa là suy nghĩ.
Tôi cố quên đi cảm nhận, chỉ suy nghĩ về người.
Tôi không hiểu mình muốn gì, chỉ nghĩ về người ấy
Tôi khát khao, mong gặp gỡ với người
Nhưng lại vẫn sợ cái ngày gặp gỡ
Bởi vì tôi sợ chia ly sau này
Tôi không biết tôi muốn gì và tôi mong gì nữa
Tôi chỉ mong được suy nghĩ về người
Không muốn hỏi ai, thậm chí người này
Không bất cứ điều gì ngoài suy nghĩ.

Passei toda a noite, sem dormir, vendo, sem espaço, a figura dela, (10-7-1930)

Passei toda a noite, sem dormir, vendo, sem espaço, a figura dela,
E vendo-a sempre de maneiras diferentes do que a encontro a ela.
Faço pensamentos com a recordação do que ela é quando me fala,
E em cada pensamento ela varia de acordo com a sua semelhança.
Amar é pensar.
E eu quase que me esqueço de sentir só de pensar nela.
Não sei bem o que quero, mesmo dela, e eu não penso senão nela.
Tenho uma grande distracção animada.
Quando desejo encontrá-la
Quase que prefiro não a encontrar,
Para não ter que a deixar depois.
Não sei bem o que quero, nem quero saber o que quero. Quero só
Pensar nela.
Não peço nada a ninguém, nem a ela, senão pensar.



5.KHI KHÔNG CÓ EM 

Ngày còn chưa biết em
Tôi đã yêu Thiên nhiên, như vị tu sĩ bình tâm yêu Chúa
Bây giờ tôi vẫn yêu Thiên nhiên
Như vị tu sĩ bình tâm yêu Đức Mẹ
Vẫn yêu theo cách của tôi, như ngày đó
Nhưng thấy càng gần gũi, cảm động hơn. 
Tôi thấy những dòng sông đẹp hơn, khi đi bên em
Ta qua những cánh đồng dẫn đến bờ sông nọ
Ngồi bên em ngắm những đám mây, tôi thấy rõ
Dường như chúng đẹp hơn
Em không lấy đi của tôi Thiên nhiên
Mà em chỉ làm thay đổi nó
Em đưa tôi gần lại với Thiên nhiên
Tôi nhìn thấy rõ ràng, bởi vì em vốn có
Em yêu tôi – tôi yêu người cũng thế
Nhưng mạnh mẽ hơn.
Em chọn tôi, và để tôi yêu em
Mắt tôi nhìn thấy em trong mọi thứ
Tôi không hối tiếc những gì tôi đã từng
Bởi vì tôi vẫn chính mình như thế. 

Quando eu não te tinha (6-7-1914)

Quando eu não te tinha
Amava a Natureza como um monge calmo a Cristo...
Agora amo a Natureza
Como um monge calmo à Virgem Maria,
Religiosamente, a meu modo, como dantes,
Mas de outra maneira mais comovida e próxima...
Vejo melhor os rios quando vou contigo
Pelos campos até à beira dos rios;
Sentado a teu lado reparando nas nuvens
Reparo nelas melhor-
Tu não me tiraste a Natureza...
Tu mudaste a Natureza...
Trouxeste-me a Natureza para o pé de mim,
Por tu existires vejo-a melhor, mas a mesma,
Por tu me amares, amo-a do mesmo modo, mas mais,
Por tu me escolheres para te ter e te amar,
Os meus olhos fitaram-na mais demoradamente
Sobre todas as coisas.
Não me arrependo do que fui outrora
Porque ainda o sou.


6.CÓ LẼ NGƯỜI NHÌN THẤY TỐT

Có lẽ người nhìn thấy tốt thì không biết cách cảm nhận
Và không hề thích ở về phía trước quá nhiều.
Cho mọi thứ đều có những qui tắc và cách hành động
Mọi thứ đều theo cách của mình, kể cả với tình yêu.
Ai quen nhìn ngắm cánh đồng cùng với cỏ và hoa
Thì không thể mù lòa với những gì cảm nhận.
Tôi yêu, nhưng không được người yêu, cuối cùng thì vẫn
Hiểu rằng được yêu không như mình vốn được sinh ra
Nàng vẫn xinh đẹp như xưa, tóc óng ả, miệng cười hoa
Còn tôi, vẫn như xưa, một mình đi trên đồng ruộng
Và tôi bước đi với mái đầu cúi xuống
Tôi nghĩ suy, rồi tôi ngước mắt nhìn xa
Mặt trời vàng làm cho khô dòng lệ cứ muốn tuôn ra.
Cánh đồng thì mênh mông mà tình yêu thì bé bỏng
Tôi nhìn rồi quên hết, người ta chết đi, tàn lụi cỏ và hoa.

Tôi nghe giọng nói của mình và nghe giọng của người ta
Giọng của tôi nói về nàng mà như giọng của nàng đang nói.
Mái tóc của nàng vàng ươm như lúa mì dưới mặt trời sáng chói
Nàng mỉm cười, hàm răng trắng như những hòn cuội dưới sông kia.

 Talvez quem vê bem não sirva para sentir (8-11-1929)

Talvez quem vê bem não sirva para sentir
E não agrada por estar muito antes das maneiras.
É preciso ter modos para todas as coisas,
E cada coisa tem o seu modo, e o amor também.
Quem tem o modo de ver os campos pelas ervas
Não deve ter a cegueira que faz fazer sentir.
Amei, e não fui amado, o que só vi no fim,
Porque não se é amado como se nasce mas como acontece.
Ela continua tão bonita de cabelo e boca como dantes,
E eu continuo como era dantes, sozinho no campo.
Como se tivesse estado de cabeça baixa,
Penso isto, e fico de cabeça alta
E o dourado sol seca a vontade de lágrimas que não posso deixar de ter.
Como o campo é vasto e o amor interior...!
Olho, e esqueço, como seca onde foi água e nas árvores desfolha.

Eu não sei falar porque estou a sentir.
Estou a escutar a minha voz como se fosse de outra pessoa,
E a minha voz fala dela como se ela é que falasse.
Tem o cabelo de um louro amarelo de trigo ao sol claro,
E a boca quando fala diz coisas que não só as palavras.
Sorri, e os dentes são limpos como pedras do rio.



7.MỖI NGÀY TÔI THỨC DẬY

Mỗi ngày thức dậy, tôi cảm thấy niềm vui và đau khổ.
Trước đây thì không thế, chỉ thức dậy thế thôi.
Cảm nhận nỗi khổ và niềm vui, tôi đánh mất những gì mơ thấy
Vào cuộc đời thực tế, tôi có những gì đã thấy trong mơ.
Tôi không biết phải làm sao với cảm giác này
Tôi không biết điều gì với mình sẽ xảy.
Tôi muốn ai đấy nói điều gì, để tôi thức giấc lần nữa.

Người đang yêu – không phải là người mà anh ta đang có
Người đó là ai – anh ta cùng một người mà lại cô đơn.

Todos dias agora acordo com alegria e pena. (23-7-1930)

Todos dias agora acordo com alegria e pena.
Antigamente acordava sem sensação nenhuma; acordava.
Tenho alegria e pena porque perco o que sonho
E posso estar na realidade onde está o que sonho.
Não sei o que hei-de fazer das minhas sensações.
Não sei o que hei-de ser sozinho.
Quero que ela me diga qualquer coisa para eu acordar de novo.

Quem ama é diferente de quem é
É a mesma pessoa sem ninguém.


8.CAO CAO GIỮA BẦU TRỜI

Cao cao giữa bầu trời ánh trăng của mùa xuân
Tôi nghĩ về em, và bên trong đang hoàn thiện chính mình.

Trên cánh đồng mờ sương nhẹ nhàng cơn gió mát
Tôi nghĩ về em, gọi tên em, không phải tôi: tôi đang hạnh phúc.

Ngày mai em sẽ đến, tôi sẽ đi cùng em hái hoa ở trên đồng
Tôi sẽ đi cùng em, nhìn những bông hoa mà em sẽ hái.
Tôi sẽ nhìn thấy em, sẽ nhìn em hái hoa ở trên đồng
Chỉ ngày mai, khi sự thật những bông hoa mà em sẽ hái
Đối với tôi đó sẽ là niềm vui và điều rất mới đó nghe em.

Vai alta no céu a lua da Primavera (6-7-1914)

Vai alta no céu a lua da Primavera
Penso em ti e dentro de mim estou completo.

Corre pelos vagos campos até mim uma brisa ligeira.
Penso em ti, murmuro o teu nome; e não sou eu: sou feliz.

Amanhã virás, andarás comigo a colher flores pelo campo,
E eu andarei contigo pelos campos ver-te colher flores.
Eu já te vejo amanhã a colher flores comigo pelos campos,
Pois quando vieres amanhã e andares comigo no campo a colher flores,
Isso será uma alegria e uma verdade para mim.



SAU KHI TÔI CHẾT

Sau khi tôi chết rồi nếu như ai đấy
Muốn viết tiểu sử của tôi, thì giản đơn thôi
Có hai ngày – là ngày sinh và ngày chết của tôi
Giữa những ngày này – là tất cả những ngày còn lại.

Mô tả tôi – là chuyện rất dễ dàng.
Tôi vốn nhìn đời như người bị ám ảnh.
Tôi yêu tất cả mọi thứ mà không đa cảm.
Không có ước mong mà không thực hiện được – không lầm.
“Nghe” đối với tôi là để hỗ trợ cho “nhìn”.
Tôi hiểu rằng mọi thứ đều khác nhau và có thực
Tôi hiểu điều này không bằng lý trí mà bằng con mắt
Bởi nếu không thì sẽ nhìn ra tất cả ngang bằng.

Một hôm tôi muốn ngủ như một đứa trẻ con.
Tôi nhắm mắt lại và ngủ rất yên lặng
Ngoài ra, tôi là nhà thơ duy nhất của thiên nhiên.

Se Depois de Eu Morrer, Quiserem Escrever a Minha Biografia

Se depois de eu morrer, quiserem escrever a minha biografia, 
Não há nada mais simples 
Tem só duas datas — a da minha nascença e a da minha morte. 
Entre uma e outra cousa todos os dias são meus. 

Sou fácil de definir. 
Vi como um danado. 
Amei as cousas sem sentimentalidade nenhuma. 
Nunca tive um desejo que não pudesse realizar, porque nunca ceguei. 
Mesmo ouvir nunca foi para mim senão um acompanhamento de ver. 
Compreendi que as cousas são reais e todas diferentes umas das outras; 
Compreendi isto com os olhos, nunca com o pensamento. 
Compreender isto com o pensamento seria achá-las todas iguais. 

Um dia deu-me o sono como a qualquer criança. 
Fechei os olhos e dormi. 
Além disso, fui o único poeta da Natureza. 



BIỂN BỒ ĐÀO NHA

Ôi biển mặn, biết bao nhiêu muối mặn
Từ nước mắt cay đắng Bồ Đào Nha
Bao bà mẹ đã khóc để vượt qua
Bao đứa con đã cầu trong vô vọng!

Bao nàng dâu đã khóc trong cay đắng
Để biển trở thành biển của chúng ta
Uổng phí chăng? Xứng đáng quá còn gì
Trong tâm hồn là độ sâu của biển.

Ai qua Bojador tìm ra con đường
Ai người sẵn sàng đi qua đau đớn
Qua giông bão và nguy nan trên biển
Thấy bầu trời trên mặt nước như gương.

*Mũi Bojador (cũng là tên một thành phố) ở Tây Sahara do Marocco cai quản. 

Mar Português

Ó mar salgado, quanto do teu sal
São lágrimas de Portugal!
Por te cruzarmos, quantas mães choraram,
Quantos filhos em vão rezaram!

Quantas noivas ficaram por casar
Para que fosses nosso, ó mar!
Valeu a pena? Tudo vale a pena
Se a alma não é pequena.

Quem quere passar além do Bojador
Tem que passar além da dor.
Deus ao mar o perigo e o abismo deu,
Mas nele é que espelhou o céu.


NGƯỜI YÊU SÁCH

Háo danh chăng! Tôi chỉ muốn trở thành
Nhà sưu tập, người yêu sách nghèo khổ
Thích cúi mình trên trang in muôn thuở
Tìm ý nghĩa về cuộc sống trần gian.

Dù ngày xuân hay giữa tiết trời đông
Vẫn ngồi đọc trong căn phòng kín kẽ
Về vẻ quyến rũ của người phụ nữ
Sống cái thời Trung cổ ở bên sông.

Không lấy mất đi mà cũng chẳng thêm
Tình yêu vẫn ngập tràn và cuộc sống
Làm đẹp thêm cho góc nhỏ của mình.

Và tôi đọc để tìm ra ánh sáng
Như một người trước cái đẹp dửng dưng
Người vô danh trong cõi đời rộng lớn.

O Bibliófilo

Ó ambições!... Como eu quisera ser
Um pobre bibliófilo parado
Sobre o eterno fólio desdobrado
E sem mais na consciência de viver.

Podia a primavera enverdecer
E eu sempre sobre o livro recurvado
Sorriria a um arcaico pecado
A uma medieval moça e qualquer.

A vida não perdia nem ganhava
Nada por mim, nenhum gesto meu dava
Um gesto mais ao seu profundo

E eu lia, a testa contra a luz acesa.
Sem nada querer ser como a beleza
E sem nada ter sido como o mundo.



MẶT TRỜI NGÀY PHÍ UỔNG

Mặt trời ngày phí uổng
Đem lo lắng chất đầy
Hãy sưởi ấm bàn tay
Nếu hồn không sưởi ấm. 

Để nhẹ nhàng khẽ chạm
Lên ngực một bàn tay
Che đậy những người ngoài
Mang cho hồn hơi ấm. 

Theo đến ngày cuối tận
Lạy Chúa, nỗi đau này
Không chia sẻ cùng ai
Xin Ngài cho sức mạnh.

Sol nulo dos dias vãos

Sol nulo dos dias vãos,
Cheios de lida e de calma,
Aquece ao menos as mãos
A quem não entras na alma!

Que ao menos a mão, roçando
A mão que por ela passe
Com externo calor brando
O frio da alma disfarce!

Senhor, já que a dor é nossa
E a fraqueza que ela tem,
Dá-nos ao menos a força
De a não mostrar a ninguém!



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét