Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017

Thơ TÂY BAN NHA - Alberti


Rafael Alberti Merello (16 tháng 12 năm 1902 – 27 tháng 10 năm 1999) – nhà thơ, nhà soạn kịch Tây Ban Nha.

Tiểu sử:
Rafael Alberti sinh ở El Puerto de Santa María, tỉnh Cádiz. Năm 1917 gia đình chuyển về Madrrid, Rafael học vẽ. Từ năm 1920 bắt đầu làm thơ. Tập thơ đầu tay Thủy thủ trên bờ (Marinero en tierra) in năm 1925 được trao giải Văn học Quốc gia. Tiếp đó là các tập thơ Hoa của bình minh (El alba de alhelí, 1927), Về những Thiên thần (Sobre los ángeles, 1929)…  lần lượt được xuất bản. Năm 1927 Rafael Alberti trở thành một trong những người sáng lập phong trào văn học Thế hệ năm 27.

Năm 1930 Rafael Alberti cưới nữ nhà văn María Teresa León. Năm 1931 ông gia nhập Đảng cộng sản Tây Ban Nha. Năm 1932 sang thăm Liên Xô. Năm 1933 thành lập tạp chí Octubre tập hợp những trí thức cách mạng của Tây Ban Nha. Năm 1934 ông cùng vợ sang Liên Xô dự Đại hội Nhà văn Liên Xô lần thứ nhất.

Những năm nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 – 1939) ông đứng về phía những người cộng hòa. Sau khi phe cộng hòa thất bại ông rời Tổ Quốc sang sống ở Pháp (1939 – 1940) sau đó sang Argentina. Từ năm 1964 đến năm 1977 ông sống ở Ý. Tháng 5 năm 1977, sau khi Franco chết, ông trở về Tây Ban Nha. Năm 1981 ông được trao Giải thưởng kịch Quốc gia (Nacional de Teatro), năm 1983 – giải Cervantes. Ngoài ra, ông còn được nhận giải Lenin de la Paz của Liên Xô (1964), giải Roma de Literatura của Ý (1991). Năm 1985 ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Cádiz. Năm 1995 ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Valencia.

Rafael Alberti mất ngày 27 tháng 10 năm 1999.

Một số tác phẩm:
*Thủy thủ trên bờ (Marinero en tierra, 1925)
*Hoa của bình minh (El alba de alhelí, 1927)
*Về những Thiên thần (Sobre los ángeles, 1929)
*Nhà thơ trên đường phố  (El poeta en la calle, 1931-1935)
*Thơ 1924-1938 (Poesías (1924-1938)
*Triều cường (Pleamar (1942-1944)
*Thơ 1924-1944 (Poesía (1924-1944)
*Hội họa (A la pintura (1945-1952)
*Giữa hoa và kiếm (Entre el clavel y la espada, 1939-1940)
*Roma, nguy hiểm cho người đi bộ (Roma, peligro para caminantes, 1968)


Một số bài thơ

NGƯỜI BỊ THƯƠNG

– Hãy tặng anh chiếc khăn nào, em gái
Để anh đem buộc vết thương…


– Em biết chọn cho anh khăn nào vậy

Màu nghệ tây hay màu hồng?

– Màu nào cũng được. Ngực anh máu đỏ.
Máu thành tia đang chảy xuống tay anh.
Nhưng con tim của mình, em hãy nhớ
Đem thêu vào từng góc của trái tim.


El herido

—Dame, tu pañuelo, hermana,
que vengo muy mal herido.

—Dime qué pañuelo quieres,
si el rosa o color de olivo.

—Quiero un pañuelo bordado,
que tenga en sus cuatro picos
tu corazón dibujado.


Sông Tiber (Tivere) ở Roma


KHI TÔI RỜI LA MÃ

Khi tôi rời La Mã
Ai còn nhớ đến tôi?

Hãy hỏi về điều này
Những chó hoang đi lạc
Những con mèo lắt lay
Và cả đôi giày rách.

Bạn hãy hỏi để biết
Những con quạ ngồi không
Những con mèo đã chết
Và cửa sổ đóng băng.

Bạn hãy hỏi ngọn gió –
Là hàng xóm của tôi
Và hỏi những nhà cửa
Không hề có trên đời

Hãy hỏi sông Tiber
Đang viết rất vất vả
Những bút danh của tôi
Dưới mỗi cây cầu đó.

Khi tôi rời La Ma
Hãy hỏi chúng về tôi.


Cuando me vaya de Roma

Cuando me vaya de Roma,
¿quién se acordará de mí?

Pregunten al gato,
pregunten al perro
y al roto zapato.

Al farol perdido,
al caballo muerto
y al balcón herido.

Al viento que pasa,
al portón oscuro
que no tiene casa.

Y al agua corriente
que escribe mi nombre
debajo del puente.

Cuando me vaya de Roma
pregunten a ellos por mí. 


FEDERICO

Federico.
Tôi đi trên phố Pinar
Tìm ngôi nhà anh ở.
Đến nơi tôi gõ cửa.
Nhưng anh chẳng có nhà.

Federico.
Anh cười như mọi người.
Anh tìm ra những lời
Không ai tìm thấy cả.
Tôi đến nơi anh ở.
Mà anh chẳng có nhà.

Federico.
Giờ bên sông Aniene
Cây của anh tươi tốt.
Tôi và ngọn gió hát
Về anh, anh có nghe.

Federico

Federico.
Voy por la calle del Pinar
para verte en la Residencia.
Llamo a la puerta de tu cuarto.
Tú no estás.

Federico.
Tú te reías como nadie.
Decías tú todas tus cosas
como ya nadie las dirá.
Voy a verte a la Residencia.
Tú no estás.

Federico.
Por estos montes del Aniene,
tus olivos trepando van.
Llamo a sus ramas con el aire.
Tú sí estás.
  

ROMA, NGUY HIỂM CHO NGƯỜI ĐI BỘ

Đừng ngắm nhìn di tích ở Roma
Khi bạn đến Roma mà đi bộ
Cần cả trăm đôi mắt mở thật to
Bạn là nô lệ ở trên đường phố.

Đừng ngắm nhìn vẻ đẹp bao kỳ quan
Bao cung điện, mái vòm, đài phun nước
Đang chờ bạn cả hàng ngàn cái chết
Nếu bạn thờ ơ, cái chết rất gần.

Nhìn phải trái nếu bạn muốn qua đường
Đèn xanh đỏ để dừng hay đi tiếp
Dù muốn dù không vẫn phải quan tâm.

Nếu muốn sống – hãy làm chim bồ câu
Nếu muốn chết – đến Roma đi bộ
Hồn bơ vơ trong phố nhỏ u sầu.

Roma, peligro para caminantes

Trata de no mirar sus monumentos,
caminante, si a Roma te encaminas.
Abre cien ojos, clava cien retinas,
esclavo siempre de los pavimentos.

Trata de no mirar tantos portentos,
fuentes, palacios, cúpulas, ruinas,
pues hallarás mil muertes repentinas
-si vienes a mirar-, sin miramientos.

Mira a diestra, a siniestra, al vigilante,
párate al ¡alto!, avanza al ¡adelante!,
marcha en un hilo, el ánimo suspenso.

Si vivir quieres, vuélvete paloma;
si perecer, ven, caminante a Roma,
alma garaje, alma garaje inmenso.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét