Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017

Thơ LA MÃ - Horace


Horace (tên đầy đủ bằng Latin: Quintus Horatius Flaccus. 8 tháng 12 năm 65 tr. CN – 27 tháng 11 năm 8 tr. CN) – là nhà thơ của thế kỷ vàng trong văn học La Mã. Ông sáng tác vào thời Nội chiến và những thập niên đầu của chính quyền Octavian Augustus.

Tiểu sử:
Horace sinh ở Venosa, miền nam nước Ý, trong một gia đình nô lệ đã được giải phóng. Sau đó gia đình chuyển về Rome, Horace được học trong những trường nổi tiếng nhất thời đấy. Khoảng năm 45 tr. CN Horace sang Athens học tiếp về văn học Hy Lạp và triết học. Năm 44 tr. CN Ceasar bị giết chết, Horace đứng về phía Brutus. Năm 22 tuổi ông được phong chức tribunus militum và hộ tống Brutus đến vùng Tiếu Á.

Năm 42 tr. CN Horace tham gia trận đánh Philippi (Battle of Philippi) nhưng Brutus thua trận. Horace được tha, sau đó ông trở về Rome và bắt đầu con đường văn học

Khoảng năm 38 tr. CN những bài thơ của Horace gây được sự chú ý của Virgil và Licius Varius Rufus. Hai nhà thơ nổi tiếng này giới thiệu Horace với Maecenas – bạn thân của Augustus. Maecenas nhận Horace là bạn và sau đó trở thành mạnh thường quân của Horace.

Khoảng năm 35 tr. CN cuốn sách đầu tiên (Sermonum) gồm 10 bài thơ được xuất bản. Khoảng năm 30 tr. CN xuất bản cuốn thứ hai... các tác phẩm của Horace lần lượt được xuất bản. Hầu hết các tác phẩm của Horace đều đề tặng Maecenas. Horace mất năm 8 tr. CN và được mai táng gần mộ của Maecenas mất trước đó không lâu.

Sự ảnh hưởng:
Horace trở thành biểu tượng nhà thơ – người thầy của văn hóa châu Âu. Nếu như Virgil dạy người đời sự nhận thức và cắt nghĩa thế giới này thì Horace dạy cách ứng xử trong đời. Ông là sự hiện thân của sự khôn ngoan, hiểu biết mọi thứ và không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì, tiếp nhận cả thành công cũng như thất bại một cách tĩnh lặng, biết từ chối cái không hợp với sức mình, biết vui với những niềm vui bình thường, coi khinh thói bon chen của người trần, bền bỉ trong việc tự hoàn thiện bản thân để đạt đến sự tĩnh lặng trong tâm hồn và tự do cho ý chí. Nguyên tắc “trung dung” của Horace đã trở thành lời có cánh, mang trong mình lời di huấn của văn minh cổ đại đối với Thời đại mới. Khi nói về thơ ca châu Âu các thế kỷ XVII – XVIII người ta gọi những bài thơ về tình yêu nhẹ nhàng, về rượu là “thơ Anacreon” con những bài thơ mang chất triết lý, đạo đức hay nguyên tắc ứng xử “trung dung” là “thơ Horace” – đấy là lời cảm tạ đối với nhà thơ lớn, người đóng vai trò quan trong trong việc hình thành thơ mới châu Âu.

Tác phẩm:
Xếp theo thời gian:
* Trào phúng I (Sermonum liber primus, 35 tr. CN)
* Sử thi (Epodes, 30 tr. CN)
* Trào phúng II (Sermonum liber secundus, 30 tr. CN.)
* Tụng ca I (Carminum liber primus, 23 tr. CN.)
* Tụng ca II (Carminum liber secundus, 23 tr. CN
* Tụng ca III (Carminum liber tertius, 23 tr. CN)
* Thư I (Epistularum liber primus, 20 tr. CN)
* Thư (Ars Poetica, 18 tr. CN)
* Bài ca Thế kỷ (Carmen Saeculare, 17 tr. CN)
* Thư II (Epistularum liber secundus, 14 tr. CN)
* Tụng ca IV (Carminum liber quartus, 13 tr. CN)

Một số bài thơ


Carmina I, XI

Đừng hỏi gì về ngày sau, không biết được đâu, cả em và anh cũng thế
điểm cuối đã định rồi, Leuconoe ơi đừng mải mê gì với phép bói Babylon
tốt nhất là ta hãy biết sống với những gì mà giờ ta đang có.
Thần Juppiter còn cho bao nhiêu mùa đông nữa hay là đã cuối cùng

Mà giờ những con sóng đang dội vào vách đá trên biển Ty-ren
hãy khôn ngoan, nhấp ly rượu của mình và quãng thời gian ngắn ngủi
hy vọng dài lâu ta bỏ lại. Khi ta đang nói với nhau đây thì thời gian
ghen tỵ trôi mau: nắm bắt khoảnh khắc, chớ tin gì tương lai xa vời vợi.


Carmina I, XXXII

Hỡi Thiên cầm! Trong bóng cành bóng lá
giờ vui này xin gửi đến muôn năm
đàn hãy cùng ta khúc hát ngân vang
ngợi ca giống nòi La Mã.

Chàng trai người Lesbos lần đầu tiên
say mê đàn, dù chàng từng giận dữ
trong trận đánh, giữa biển trời bão tố
đã cập bến con thuyền.

Chàng ngợi ca Bacchus và Vệ nữ
với đứa con trai luôn ở bên mình
ngợi ca sắc đẹp của ánh mắt huyền
và mái tóc đen đúa.

Em là niềm vui của thần Apollo
trang điểm cho thần Juppiter dự tiệc
em mang cho đời niềm vui hạnh phúc
em hãy đến cùng ta. 




Carmina III, XXX

Tôi sẽ dựng tượng một đài bất tử cho mình
Cao hơn Kim tự tháp, vững chắc hơn tượng đồng
Trước bão táp phong ba muôn đời đứng vững
Và sẽ vẫn muôn đời tồn tại với thời gian.

Tôi sẽ không chết, mà dù chết vẫn còn
Di sản của tôi muôn thuở với cháu con
Niềm vinh quang còn sống một khi La Mã
Vẫn cứ hiên ngang tồn tại ở thế gian. 

Nơi sông Aufidus tuôn chảy suốt ngày đêm
Nơi ông vua Daunus vẫn cai trị dân lành
Lần đầu tôi mang câu thơ Aeolian xưa cổ
Tôi vốn xuất thân từ nòi giống khiêm nhường.

Đem thơ xưa vào bài ca nước Ý của mình
Với vùng đất Delphica tôi đã xứng danh
Hỡi Melpomene, hỡi Nàng Thơ muôn thuở
Hãy trao cho tôi vòng nguyệt quế vinh quang. 
______

*Aufidus – dòng sông ở phía nam nước Ý, quê hương của nhà thơ; Daunus – vua xứ Apulia, quê hương của nhà thơ; Thơ Aeolian – thơ Hy Lạp cổ; Delphica – vùng đất cổ ở Hy Lạp; Melpomene – theo thần thoại Hy Lạp, là nàng thơ của bi kịch, một trong chín người con gái của thần Dớt. 




Những câu lời hay ý đẹp của Horace:

* Carpe diem – Nắm bắt khoảnh khắc. Câu thơ “carpe diem quam minimum credula postero” (nắm bắt khoảnh khắc, chớ tin gì tương lai xa vời vợi).
* Dulce et Decorum Est pro patri mori – (Chết vì tổ quốc sung sướng và ngọt ngào thay). Câu này xuất hiện thường xuyên trên các tờ báo ở châu Âu và trở thành một khẩu hiệu của chiến tranh Thế giới I. Câu này cũng trở thành tên một bài thơ với sự mỉa mai cay đắng Thế chiến I của nhà thơ Anh Wilfred Owen.
* Sapere aude – (Quyết trở thành nhà thông thái). Câu này trở thành một thứ khẩu hiệu của Thế kỷ Ánh sáng, nhà triết học Immanuel Kant rất thích câu này.

* Culpam poena premit comes – Đi sau tội ác là sự trừng phạt.
* Nil desperandum – Đừng bao giờ tuyệt vọng.
* Ab ovo usque ad mala – Từ đầu chí cuối.
* Nuda veritas – Sự thật trần truồng.
* Est modus in rebus – Chừng mực trong mọi thứ.
* Aurea mediocres – Nguyên tắc vàng trung dung.
* Fuga temporum – Năm tháng trôi mau.
* Discordat avaro parcus – Người tằn tiện không có nghĩa là bủn xỉn.
* Semper avarus eget – Kẻ keo kiệt lúc nào cũng thấy thiếu.
* Omnem crede diem tibi diluxisse supremum – Hãy nhớ rằng ngày nào cũng đều có thể là ngày cuối cùng của bạn.
* Nemo contentus vivat, laudet diversa sequentis – Không ai bằng lòng với đời mình, ai cũng ganh tỵ với phần người khác.
* Dum vitant stulti vitia, in contraria currunt – Những kẻ ngốc tránh tật xấu này lại mắc vào tật xấu khác.
* Nam vitiis nemo sine nascitur, optimus ille est, qui minimis urgetur – Chẳng có ai sinh ra mà không có tật xấu nào, người tốt là người có ít tật xấu hơn tất cả.
* Nec naso suspendis adunco ignotos – Mũi đại bàng không vểnh lên trước kẻ chưa ai biết (từ đây mà có thành ngữ: “vểnh mũi lên”)
* Nil sine magno vita labore dedit mortalibus – Cuộc đời chẳng cho không cái gì (mà không cần lao động).
* Hac urguet lupus, hac canis – Chó sói ở đây, còn đằng kia là chó (giống như: “trên thớt dưới dao”).
* Virtus est vitium fugere et sapientia prima stultitia caruisse – Phẩm hạnh tránh tật xấu, khôn ngoan tránh phỏng đoán.
* Dimidium facti, qui coepit, habet – Ai mở đầu là đã làm một nửa việc.
* Imperat aut servit collecta pecunia cuique – Tiền có thể là ông chủ hay nô lệ cho người tích cóp nó.
* Caelum, non animum mutant, qui trans mare currunt – Người đi sang bên kia biển thay đổi bầu trời chứ không phải tâm hồn.
* Quid de quoque viro et cui dicas, saepe videto – Thường xuyên để ý xem bạn nói với ai và nói về ai.
* Multa fidem promissa levant – Hứa hẹn lớn làm giảm lòng tin.
* Non omnes eadem mirantur amantque – Không phải tất cả đều khâm phục một thứ, không phải tất cả đều yêu một thứ.
* In vitium ducit culpae fuga, si caret arte – Kẻ không đạt đến khoa học tránh sai lầm này sẽ rơi vào sai lầm khác.
* Nec semper feriet quodcumque minabitur arcus – Mũi tên không phải lúc nào cũng rơi vào cái đích mà nó ngắm.


 Về thành ngữ "Carpe diem" của Horace

Carpe diem – thành ngữ Latin có nghĩa là “Hãy sống với ngày hôm nay"", đôi khí còn gọi là ""Nắm bắt khoảnh khắc” hoặc “Nắm bắt thời điểm”, theo nghĩa bóng là “Hãy tận hưởng cái phút giây mà ta đang có” hoặc “Đừng bao giờ hoãn lại hạnh phúc hiện tại”.

Thành ngữ nổi tiếng này thể hiện một ý tưởng rằng cuộc đời của con người có thể chấm dứt đột ngột trong mọi thời điểm bất kỳ, bởi thế con người cần cố gắng tận hưởng mỗi ngày trong cuộc đời như là ngày cuối cùng để đến khi nhắm mắt xuôi tay anh ta có thể nói được rằng đã sống một cuộc đời không uổng phí.

Nói một cách khác đấy là lời kêu gọi hành động trong mọi khoảnh khắc của đời sống: Nắm bắt khoảnh khắc! – Hãy làm ngay bây giờ! Đừng bao giờ để sang ngày mai những gì có thể làm trong ngày hôm nay vì rằng cuộc đời có thể chấm dứt trong mọi thời khắc bất kỳ.

Quan điểm này lần đầu tiên được nhà thơ La Mã cổ đại Horace thể hiện đầy đủ trong một bài thơ của mình:

Tu ne quaesieris, scire nefas, quem mihi, quem tibi
finem di dederint, Leuconoe, nec Babylonios
temptaris numeros. Ut melius, quidquid erit, pati.
Seu pluris hiemes, seu tribuit Iuppiter ultimam,
quae nunc oppositis debilitat pumicibus mare
Tyrrhenum: sapias, vina liques, et spatio brevi
spem longam reseces. Dum loquimur, fugerit invida
aetas: carpe diem, quam minimum credula postero.

Đừng hỏi gì về ngày sau, không biết được đâu, cả em và anh cũng thế
Điểm cuối đã định rồi, Leuconoe ơi đừng mải mê gì với phép bói Babylon
Tốt nhất là ta hãy biết sống với những gì mà giờ ta đang có.
Thần Juppiter còn cho bao nhiêu mùa đông nữa hay là đã cuối cùng
Mà giờ những con sóng đang dội vào vách đá trên biển Ty-ren
Hãy khôn ngoan, nhấp ly rượu của mình và quãng thời gian ngắn ngủi
Hy vọng dài lâu ta bỏ lại. Khi ta đang nói với nhau đây thì thời gian
ghen tỵ trôi mau: nắm bắt khoảnh khắc, chớ tin gì tương lai xa vời vợi.


Những sự kiện liên quan:
* Trong Kinh Thánh (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước) đều có những chỗ nói đến điều này. Chương IX, mục 7 – 9 của sách Truyền Đạo (Ecclesiastes) viết:
7 Bởi thế, hãy đi ăn bánh vui mừng
Và uống rượu với lòng vui hớn hở
Khi Chúa Trời chấp nhận sự lao công.

8 Và mọi lúc ngươi sẽ mặc áo trăng
Trên đầu ngươi luôn hương dầu thơm ngát.

9 Trong những ngày hư không cuộc đời ngươi
Dưới mặt trời đã ban nhờ Đức Chúa
Cùng người vợ mình yêu thương vui vẻ
Đó là phần ngươi được nhận trong đời
Vì lao khổ làm ra dưới mặt trời.

10 Mọi việc mà bàn tay ngươi làm đặng
Thì hãy gắng làm cho hết sức mình
Vì dưới âm phủ, nơi ngươi đi đến
Chẳng việc làm, tri thức, sự khôn ngoan.


* Chương XXII, mục 13 sách Isaiah viết:

13 Thế mà chỉ thấy hoan hỉ vui mừng:
mổ bò, giết chiên, ăn thịt, uống rượu:
"Ăn đi, uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!"


* Còn Tân Ước, trong bức thư thứ nhất gửi các tín hữu Cô-rinh-tô (chương 15, mục 32) Thánh Phao-lô viết:

32) Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến đấu với thú dữ tại Êphêxô, thì điều đó nào có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết không chỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết.

* Nhà thơ Ba Tư trung cổ Omar Khayyam qua các bài thơ Rubaiyat nổi tiếng thế giới của mình đã thể hiện đầy đủ triết lý Carpe diem nhất. Bài giới thiệu bản tiếng Việt của cuốn sách này phân tích quan điểm hưởng lạc của Omar Khayyam, so sánh và liên hệ với Kinh Thánh, triết học Epicurus và thơ ca cổ đại…

... Omar Khayyam cho rằng cuộc đời người là vốn quí, mỗi người cần được nhận về phần hạnh phúc của mình. Hạnh phúc không phải ở chốn thiên đàng hay nơi cực lạc sau khi chết như tôn giáo vẫn khẳng định mà hạnh phúc trên cõi đời này và trong ngày hôm nay.

Tôi chẳng mong sung sướng ở “sau này”
Tôi chỉ cần có rượu uống “hôm nay”
Tôi chẳng tin vào chuyện đời vay trả
Có khác gì tiếng trống gõ vào tai.


Cuộc đời người ngắn ngủi. Cái chết không ai tránh khỏi. Đôi khi Khayyam cảm thấy sự vô nghĩa của cuộc đời này. Nhưng Khayyam không tin vào cuộc đời ở thế giới bên kia mà chỉ mong nhận hết những gì có thể ở cuộc đời này.

Gương mặt dịu dàng và hoa cỏ xanh tươi
Tôi vẫn ham mê một khi còn sống trên đời.
Tôi đã, đang và có lẽ vẫn còn uống rượu
Uống đến giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi.


Không tin vào thiên đàng ở trên trời Khayyam vẽ ra thiên đàng dưới mặt đất. Đó là bãi cỏ xanh bên bờ suối, là buổi chiều tà, là gương mặt dịu dàng của người tình cùng chén rượu, là khi mà không còn phân biệt được được màu môi của người tình hay hay màu của rượu hồng hơn, say người tình hay rượu say hơn.

Suối róc rách và hoa cỏ ngát hương
Có khác chi phong cảnh chốn thiên đường
Muốn bao nhiêu hãy nằm lăn trên cỏ
Uống rượu nồng, âu yếm với người thương.


Hoặc cảnh sum vầy quanh bạn bè, bên chén rượu, đêm trăng

Em yêu ơi ai biết được ngày mai
Ta hãy quên phiền muộn dưới trăng này
Uống đi em kẻo một ngày nào đó
Trăng lại về còn ta đã xa bay.


Nhưng rồi cũng có lúc ta thấy chỉ còn lại một mình Khayyam và rượu – người bạn hiền duy nhất không bao giờ từ giã Khayyam.

Hãy cho tôi một bình rượu thật đầy
Cô bán hàng cứ rót, chớ dừng tay.
Giờ chỉ rượu người bạn hiền duy nhất
Cả bạn và tình đều đã đổi thay.


Trong thơ Khayyam ta bắt gặp thật nhiều bài ca ngợi rượu. Hình tượng rượu trong thơ ông có rất nhiều nghĩa, nhiều cách giải thích. Những bài sau đây có nghĩa thông thường.

Kẻ hành khất uống rượu ngỡ ông hoàng
Cáo uống rượu thành sư tử hiên ngang
Già uống vào thành trẻ vô tư lự
Trẻ uống vào thành chín chắn, khôn ngoan.


Rượu trong thơ Khayyam là hình tượng thi ca dùng để thể hiện, khẳng định mình. Rượu là tượng trưng cho hạnh phúc của con người, là sự phản kháng đối với những cấm đoán khắt khe của tôn giáo, ca ngợi tự do của con người. Khayyam không đồng tình với học thuyết Hồi giáo về thiên đàng: nếu ngoan đạo là phải từ chối những lạc thú ở đời này để sau khi chết sẽ được lên thiên đàng có tiên, có rượu, có suối mát, có mật ngọt chảy thành sông và một cuộc sống hạnh phúc đời đời. Còn logíc của Khayyam là tại sao trên đời này cũng có người đẹp, có rượu, có thơ, có nhạc, có buổi chiều tà, có suối róc rách và chim hót trên cành thì không hưởng đi mà phải đợi đến sau khi chết.

“Lên thiên đàng sẽ được uống rượu nồng
Có tiên hầu, được sung sướng, thong dong…”
Nhưng dưới này tôi vẫn em, vẫn rượu
Suy cho cùng là những thứ đời mong.


Khayyam không hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của thiên đàng mà thường nói “chắc gì” nhưng theo Khayyam con người phải là sự kết hợp của hồn và xác. Nếu có thiên đàng thì chỉ cho “hồn” còn “xác” vĩnh viễn nằm lại trên mặt đất, trở thành đất cát cho người đời sau đem đóng gạch xây nhà hoặc cho thợ gốm đem nặn thành bình, thành chén...

Trong thơ Khayyam người đẹp, rượu, hoa cỏ, thiên nhiên dưới mặt đất đối trọng với tiên nữ, rượu, vườn hoa, suối mật trên thiên đàng, kẻ hoài nghi với người tin vào giáo điều mù quáng, lòng chân thành với sự giả dối, cuộc sống với cái chết, thực tại với hư vô...


* Thành ngữ Carpe diem đóng vai trò chủ đạo trong nội dung phim Hội các nhà thơ chết (Dead Poets Society) của đao diễn Peter Weir. Bộ phim này đoạt giải Oscar và giải BAFTA (The British Academy of Film and Television Arts). Bộ phim này là câu chuyện của một thầy giáo tiếng Anh và Văn học đã cổ vũ những học trò thay đổi quan niệm sống và khơi dậy ở họ sự quan tâm đến thơ ca và văn học nói chung…

Bảy cậu bé (Neil Perry, Todd Anderson, Knox Overstreet, Charlie «New Wonder» Dalton, Richard Cameron, Steven Meeks và Gerard Pitts) là những học sinh của một trường phổ thông nổi tiếng, được giáo dục theo các nguyên tắc: Truyền thống, Danh dự, Kỷ luật và Hoàn thiện (Tradition, Honour, Discipline and Excellence). Tuy nhiên các học sinh này lại theo đuổi những nguyên tắc khác, như họ vẫn gọi ngôi trường của mình là “Hellton” (Địa ngục): Bắt chước, Khiếp sợ, Suy đồi và Cặn bã (Travesty, Horror, Decadence, and Excrement).

Một hôm họ được một thầy giáo mới, John Keating – là người có phương pháp dạy mới, khác hẳn với phương pháp truyền thống của trường này dạy. Thầy giáo bắt đầu dạy các em học sinh về cái chết không tránh khỏi và giải thích rằng cuộc đời người ngắn ngủi và chóng hết, bởi thế họ cần tuân thủ nguyên tắc “Carpe diem” (Nắm bắt khoảnh khắc, thời điểm) – đây cũng là phương châm của trường phái triết học Epicurus. Phần còn lại của bộ phim là sự thức tỉnh mà người xem phim sẽ hiểu rằng những người lớn cần làm gương. Các cậu bé tham gia sinh hoạt ở câu lạc bộ văn học có tên “Hội các nhà thơ chết” mà thầy giáo John Keating là một thành viên.

Bộ phim nêu ra một loạt đề tài và những vấn đề của xã hội hiện đại. Vấn đề quyền con người, vấn đề lựa chọn con đường riêng trong cuộc sống, đề tài tình bạn và sự phản bội, đấu tranh với hoàn cảnh, sự không hiểu nhau giữa các thế hệ vv…

* Carpe diem là tên của rất nhiều bài hát của các ban nhạc nổi tiếng thế giới như: The Fugs, Metallica, Dream Theater, Ayreon, Nebula, Authority Zero, Bigod 20, Will Haven, YeLLOW Generation, The Nerve Agents, MC Solaar, Jehst, Zehavi und Rand vs Hydroid, Aldebert, Heavenly…

* Trong bộ phim truyền hình nhiều tập của Mỹ Eureka hầu như cảnh nào cũng nhắc đến thành ngữ Carpe diem.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét