Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Thơ BA LAN - Leopold Staff


Leopold Staff (14 tháng 11 năm 1878 – 31 tháng 5 năm 1957) là nhà thơ, nhà soạn kịch, dịch giả. Một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của Ba Lan thế kỷ XX.

Tiểu sử
Leopold Staff sinh ở Lvov. Học Đại học Lvov trong các năm 1897 – 1901. Tham gia nhóm thơ Płanetnicy và cộng tác với nhiều tờ báo và tạp chí đương thời. Các năm 1909 – 1914 ông biên tập bộ sách Symposion của nhà xuất bản Księgarnia Biblioteki Polskiej B. Połonieckiego, in các tác phẩm chọn lọc của các nhà triết học và các nhà văn nổi tiếng. Những năm Thế chiến I ông sống ở Kharkov. Từ năm 1918 - ở Warszawa, làm biên tập của tạp chí Nowy Przegląd Literatury i Sztuk trong các năm 1920 – 1921. In tác phẩm ở các tờ báo lớn Tygodnik Ilustrowany (1918 – 1923), Kurier Warszawski (1922 – 1927), Gazeta Polska (1931 – 1939).

Năm 1924 ông là phó Chủ tịch Hội nhà văn, nhà báo Ba Lan, sau đó, từ năm 1924 – 1931 là Chủ tịch Hội này. Từ năm 1920, ông là hội viên Hội nhà văn Ba Lan, thành viên Học viện văn học Ba Lan từ năm 1933. Thời kỳ Thế chiến II Leopold Staff sống ở Warszawa, dạy học ở trường Đại học sơ tán.

Sự nghiệp
Leopold Staff là tác giả của nhiều tập thơ và trường ca nổi tiếng. Ông được các nhà phê bình đánh giá có một giọng điệu thơ rất riêng, nhẹ nhàng mà đằm thắm, giàu chất nhạc và ngôn ngữ cổ điển của tiếng Ba Lan. Nét chủ đạo trong thơ ông là một nỗi buồn nhẹ nhàng sinh ra trong „vương quốc của hoàng hôn” khi mà „mạng nhện của quan tài vây quanh từng ý nghĩ”. Ông chịu ảnh hưởng của Hugo von Hofmannsthal, Mooris Maeterlinck, Gerhart Hauptmann, Friedrich Nietzsche nhưng tiếp thu và cải biến theo cách của riêng mình. Ngoài sáng tác, ông còn dịch rất nhiều các tác phẩm thơ, văn, triết học từ tiếng Latin, Anh, Pháp, Đức, Ý ra tiếng Ba Lan. Ông dịch tác phẩm của Leonardo da Vinci, triết học của Epicurus, Democritus, Heraclitus, Friedrich Nietzsche, thơ văn của Michelangelo, Johann Wolfgang von Goethe, Denis Diderot, Romain Rolland, Thomas Mann, Knut Hamsun, Selma Lagerlöf và nhiều nhà thơ, nhà văn châu Âu khác. Ông cũng là người viết rất nhiều bài giới thiệu cho các tác phẩm dịch của mình.

Giải thưởng
Leopold Staff được trao giải thưởng văn học Nhà nước (các năm 1927, 1951), giải thưởng của các thành phố: Lvov (1929), Łódź (1931), Warszawa (1938). Từ năm 1931 là thành viên của Hội Văn bút Ba Lan và được trao giải thưởng của Hội này năm 1948 cho hoạt động dịch thuật. Ông còn là Tiến sĩ honoris causa của Đại học Warszawa và Đại học Jagielloński.

Leopold Staff mất tại Skarżysko-Kamienna ngày 31 tháng 5 năm 1957.

Tác phẩm:
Giấc mơ về sự hùng mạnh (Sny o potędze, 1901)
Ngày của linh hồn (Dzień duszy, 1903)
Gửi chim trời (Ptakom niebieskim, 1905)
Nhánh hoa (Gałąź kwitnąca, 1908)
Nụ cười thời gian (Uśmiechy godzin, 1910)
Trong bóng của thanh kiếm (W cieniu miecza, 1911)
Cầu vồng của nước mắt và máu (Tęcza łez i krwi, 1918)
Cây cao (Wysokie drzewa, 1932)
Màu của mật ong (Barwa miodu, 1936)


Một số bài thơ

KHI Ở TRONG RỪNG ANH GẶP EM

Khi ở trong rừng anh gặp em
Tựa như trong giấc mộng êm đềm
Sao em không nói cùng anh vậy
Chỉ nghe tiếng vọng của lời em?

Khi ở trong vườn anh gặp em
Nơi mùi hương ngan ngát bốc lên
Tại sao em không ôm anh nhỉ
Chỉ phảng phất gần gũi của em?

Khi bên giếng nước anh gặp em
Bầu trời trong giếng nước màu xanh
Tại sao mắt em anh không thấy
Chỉ ánh nhìn từ nước chiếu lên?

Khi ở trong mơ anh gặp em
Chỉ đêm khuya khoắt với lặng yên
Sao em không sống trên đời vậy
Chỉ hồn anh tràn ngập hồn em?


Kiedy spotykam cię w lesie

 Kiedy spotykam cię w lesie,
Co szumem w sen się kołysze,
Pytam: "Dlaczego ty do mnie nie mówisz,
Lecz echo słów jeno twych słyszę?"

Gdy cię spotykam w ogrodzie,
Gdzie wonie zwiewa wiew chyży,
Pytam: "Dlaczego na pierś mi nie padasz,
Lecz jeno woń czuję twej bliży?"

Gdy cię spotykam nad studnią,
Gdzie niebo w wód śpi błękicie,
Pytam: "Dlaczego nie widzę twych oczu,
Lecz jeno ich w wodzie odbicie?"

Kiedy spotykam cię we śnie,
Który wykwita w noc z głuszy,
Pytam: "Dlaczego cię nie ma na świecie,
Lecz żyjesz jedynie w mej duszy?..."



ODYSSEUS

Đừng để những sai lầm
Đắng cay làm khổ bạn
Có vô vàn đường thẳng
Và ngàn vạn đường cong.

Quan trọng – là ta cần
Chỉ đi về phía trước
Mặc dù rất lắm lúc
Không về phía ta mong. 

Rồi sau ta vẫn còn
Dòng chữ trên bia đá
Đều như Ô-đi-xê cả
Khi trở về cố hương. 

Odys

Niech cie nie niepokoja
Cierpienia twe i bledy.
Wszedy sa drogi proste
Lecz i manowce wszedy.

O to chodzi jedynie,
By naprzod wciaz isc smialo,
Bo zawsze sie dochodzi
Gdzie indziej, niz sie chcialo.

Zostanie kamien z napisem:
Tu lezy taki i taki.
Kazdy z nas jest Odysem,
Co wraca do swej Itaki.
  

NỀN MÓNG

Tôi xây ngôi nhà trên cát
Ngôi nhà đổ nhào
Tôi xây ngôi nhà trên đá
Ngôi nhà vẫn đổ nhào
Nên bây giờ tôi bắt đầu
Xây nhà trên khói.


Podwaliny

Budowałem na piasku
I zawaliło się.
Budowałem na skale
I zawaliło się.
Teraz budując zacznę
Od dymu z komina.


TRÊN BỜ SÔNG

Tôi bước trên bờ sông
Nghe thắt lại trong lòng –
Niềm hạnh phúc đã chết
Bỗng nhiên lại hồi sinh.

Ánh hoàng hôn màu vàng
Đang lặng lẽ héo tàn.
Tôi ngồi trong bóng tối
Ném đá xuống dòng sông.


Nad brzegiem

Żwirem brzegu idąc ponad rzeką,
Przystanąłem nagle jak przykuty.
Zmarłe szczęście błysnęło wspomnieniem
I przez setną część żyło minuty.

Niebo złotą dogasało zorzą
Konającej spokojnie pogody.
W niemym mroku siedziałem tam długo
I rzucałem kamienie do wody.

CÂY CẦU

Tôi đã không tin,
Khi đứng trước dòng sông
Rộng mênh mông và vách dựng đứng
Rằng tôi sẽ đi qua được chiếc cầu này –
Cây cầu làm bằng cây sậy mỏng
Bện với vỏ cây.
Tôi đi nhẹ nhàng như con bướm
Và như con voi, rất nặng.
Lảo đảo như người mù
Tôi đã không tin rằng sẽ đi qua.
Còn bây giờ, đứng trên bờ khác
Tôi vẫn không tin rằng đã bước qua cầu.

Most

Nie wierzyłem
Stojąc nad brzegiem rzeki,
Która była szeroka i rwista,
Że przejdę ten most,
Spleciony z cienkiej, kruchej trzciny
Powiązanej łykiem.
Szedłem lekko jak motyl
I ciężko jak słoń,
Szedłem pewnie jak tancerz
I chwiejnie jak ślepiec.
Nie wierzyłem, że przejdę ten most,
I gdy stoję już na drugim brzegu,
Nie wierzę, że go przeszedłem.


NGÀY CHỦ NHẬT

Tôi không đi đường này
Nơi đầy lá vàng rơi
Ở đây sau mỗi bước
Sâu hơn, thu đầy mây.
Trở lại màu xanh tươi
Tôi ngồi bên dòng nước
Nở hoa hướng bầu trời
Hoa “xin đừng quên tôi”
Đưa môi tìm ký ức
Cái tên của em thôi.

Niedziela

Nie pojde ta sciezk;
Wiednaca opadlymi lisсmi:
Tu z kazdym krokiem
Coraz glebsza, coraz mglistsza jesien,
Zawroce tam, gdzie zielono,
Do zrodla
Nad ktorym kwitna niebem
Dziecinne niezapominajki
I pamieс w ciszy szuka ustami
Twojego imienia.


HÃY NHÌN MÂY ĐEN

Hãy nhìn mây đen bay lượn giữa bầu trời
Những chị em của bão, của thời tiết xấu
Có bao nhiêu là dằn vặt, điên rồ trong đó
Bao nhiêu là khát khao, ý chí, tự do!

Đừng nói gì về hạnh phúc, ảo tưởng đã xưa!
Hạnh phúc không tạo ra gì ngoài hoài niệm cả
Chỉ một khoảnh khắc của niềm vui là đủ cho
Rất nhiều, rất nhiều năm đau khổ.  

Patrz na te chmury

Patrz na te chmury, co się kłębią w niebie,
Siostrzyce burz, niepogody!
Ileż w nich wichru, walki, męk, szału,
Pędu, wolności, swobody!

Nie mów o szczęściu, stara złudo!... Szczęście
Nie stwarza nic prócz wspomnienia,
A jedna chwila radości wystarczy
Na długie lata cierpienia.



ANH BƯỚC RA TÌM EM

Anh bước ra tìm Em buổi sớm mai đầy sợ hãi
Không tìm ra, anh nghĩ rằng mọi chuyện có gì sai
Và anh đã gặp Em trên đường, khi anh quay trở lại
Bởi vì Em suốt đời vẫn theo bước chân anh. 

Suốt cả ngày anh lang thang ở dưới bóng râm
Trong cái lạnh của ngày và dường như có lẽ
Để Em cháy lên trong hoàng hôn của anh ráng đỏ
Như ánh mặt trời trên dòng sông của buổi hoàng hôn.

Wyszedlem szukac...

Wyszedlem szukac Ciebie o swicie i w trwodze,
Nie znajdujac, myslalem, zem szedl droga klamna;
I spotkalem Cie, kiedym odwrocil sie w drodze,
Bowiem przez cale zycie krok w krok szedles za mna.

Wуdrowalem dzien caly pod cienia ciezarem,
W chlodzie-m poludnie minal, by oto u konca
Plonaс Toba, o zmierzchu mym, czerwonym zarem,
Jako wieczorna rzeka o zachodzie slonca.


GÁNH NẶNG

Tôi có một chiếc giỏ
Tôi muốn đựng trái cây
Dùng suốt mùa đông dài
Hoặc bánh mì, có thể. 

Đêm qua ai đặt đá
Cứng và nặng vô cùng
Tôi nghĩ: không ai cả
Đây – gánh nặng của mình.

Tôi mang nó bằng lưng
Mang những hòn đá nặng
Cho đến ngày cuối cùng
Đến nơi tôi sẽ đến.

Ciężar

Miałem pleciony kosz,
Chciałem weń włożyć owoce,
By je przechować na zimę,
A może miał to być chleb.

W nocy ktoś włożył mi w kosz kamienie,
Ciężkie i twarde,
Które nia miały posłużyć nikomu,
Tylko obarczyć mi grzbiet.

Lecz wezmę ten kosz na plecy,
Poniosę te kamienie,
Poniosę je do końca,
Aż tam.


TOLSTOY

Tolstoy đã thoát khỏi nỗi buồn
Có mọi thứ - mà không cần gì cả.
Tôi đang vui trên con đường gian khó
Người chủ nhân của cái bóng chính mình.

Tolstoj

Tolstoj uciekl od smutku
Mial wszystko, wiec nie mial nic.
Ide radosnie  w skwarde drog
Wlagciciel swego cienia.


HOÀNG HÔN

Ôi hoàng hôn! Ngươi thật tuyệt vời thay
Cổ xưa như bầu trời, muôn đời – như bí ẩn
Trước băng giá của những ảo ảnh này
Mọi thứ của con người đều cô đơn và ngắn.

Nhưng khi hoàng hôn lặng yên trên biển
Và trở nên hoang vắng chốn trần gian
Thì theo ngọn đồi bước chân ta đến
Và những bước chân – có vẻ cả trăm năm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét