Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Thơ HUNGARY - Sándor Petőfi



Sándor Petőfi (tên thật là Alexander Petrovič, 1 tháng 1 năm 1823 – 31 tháng 7 năm 1849) – thi hào dân tộc Hungary, nhà cách mạng dân chủ, một trong những nhà lãnh đạo của cuộc cách mạng 1848-1849 ở Hungary. 

Tiểu sử:

Sándor Petőfi sinh ở thị trấn Kiskőrös trong một gia đình bố làm nghề giết mổ gia súc, mẹ xuất thân từ một gia đình lao động nghèo. Khi lên một tuổi, gia đình ông chuyển đến Kiskunfélegyháza, nơi mà sau này ông coi quê hương của mình. Cha của Petőfi, theo khả năng tài chính cho phép, đã cố gắng để cho con trai có được sự giáo dục tốt nhất, nhưng sau một trận lụt thảm khốc năm 1838 ngôi trường nơi ông học bị phá hủy hoàn toàn, kết quả là ông phải bỏ học.

Năm 1839, vì sinh kế, Petőfi gia nhập quân đội đóng ở Sopron, nơi ông đã bị sa thải vào năm 1841 do bệnh tật. Sau khi bị sa thải Petöfi làm nghề diễn viên lưu động, sau đó trở thành một gia sư, và công việc dịch thuật cũng mang lại cho ông thu nhập. Cuối cùng, ông cũng tích lũy đủ kinh phí để tiếp tục học ở một trường Cao đẳng, nơi ông gặp người bạn thân nhất của mình là Jókai Mor. Bài thơ đầu tiên được in ở tạp chí Athenaeum. Cũng trong năm đó ông xuất bản tác phẩm đầu tiên và lấy bút danh Sándor Petöfi từ đó.


Trong những trường ca nổi tiếng của ông – “Cái búa” và “Dũng sĩ János”, Petőfi đã hoàn toàn thoát khỏi những qui tắc cũ và sự dè dặt thường lệ. Trường ca “Cái búa” phê phán những người cầm bút không có tài năng và không có lương tâm, chỉ suốt ngày tâm bốc bọn quý tộc mà không phục vụ cách mạng, nhân dân. Trường ca “Dũng sĩ János” (Janos vitez), sáng tác dựa trên chất liệu của văn hóa dân gian, đặc trưng bởi cách phổ biến nội dung và hình thức gần gũi với những câu chuyện dân gian. 


Trong cuộc cách mạng ở Hungari, Sándor Petőfi trực tiếp tham gia vào các trận đánh và làm thơ để cổ vũ tinh thần cho binh lính. Ông hy sinh trong trận đánh ở Segesvár với quân đội Nga hoàng do tướng Paskevich chỉ huy. Dù sống cuộc đời chỉ vỏn vẹn 26 năm nhưng di sản thơ ca mà ông để lại cho đời là vô giá. Ông được coi là thi hào dân tộc, người đặt nền móng cho ngôn ngữ thơ ca của Hungary. Vai trò của ông đối với Hungary cũng tương tự như Nguyễn Du đối với Việt Nam.


Một số bài thơ




EM YÊU MÙA XUÂN

Em vốn yêu mùa xuân, còn anh thì

Yêu mùa thu, yêu màn đêm, bóng tối
Cuộc đời em là ngày xuân sôi nổi 
Còn cuộc đời anh là một ngày thu.

Em như mùa xuân gương mặt tươi hồng

Gương mặt em như bông hồng đang nở
Ánh mắt mùa thu là bạn của anh
Đang tàn lụi dần và sắp từ giã.

Anh chỉ cần một bước chân cẩu thả

Một bước chân về phía trước vô tình
Là đến ngay ngưỡng cửa của mùa đông
Mùa đông bạc đầu, mùa đông băng giá.

Nhưng giá như anh lùi thêm một bước

Em tiến thêm một bước, thì chúng mình
Sẽ nắm tay nhau bước vào khu vườn
Của mùa hè ấm áp và tuyệt đẹp.

Te a tavaszt szereted

Te a tavaszt szereted,
Én az őszt szeretem.
Tavasz a te életed,
Ősz az én életem.

Piros arcod a tavasz
Virító rózsája,
Bágyadt szemem az ősznek
Lankadt napsugára.

Egy lépést kell tennem még,
Egy lépést előre,
S akkor rájutok a tél
Fagyos küszöbére.

Lépnél egyet előre,
Lépnék egyet hátra,
S benne volnánk közösen
A szép meleg nyárba’.


HÃY UỐNG


Nếu con gái không yêu

Thì rượu đây, hãy uống
Uống say rồi tưởng tượng
Con gái yêu rất nhiều.

Nếu tiền túi không còn

Thì rượu đây, hãy uống
Say sưa rồi tưởng tượng
Giàu có như ông hoàng.

Nếu cảm thấy rất buồn

Thì rượu đây, hãy uống
Cho nỗi buồn của bạn
Như mây khói tan nhanh. 

Tôi buồn ngập cõi lòng

Tình tiền đều phá sản
Nhưng nỗi buồn ra lệnh
Phải uống gấp ba lần.

Igyunk 

Akinek nincs szeretője, 
Bort igyék, 
S hinni fogja, hogy minden lyány 
Érte ég. 

És igyék bort az, akinek 
Pénze nincs, 
S az övé lesz a világon 
Minden kincs. 

És igyék bort az, akinek 
Búja van, 
S a bú tőle nyakrafőre 
Elrohan. 

Sem szeretőm, sem pénzem, csak 
Bánatom; 
Másnál háromszorta többet 
Ihatom.


HỒN BẤT TỬ


Hồn bất tử - tôi biết

Nhưng chẳng phải trên trời
Mà ở cõi đời này
Đâu đó trên mặt đất.

Tôi nhớ mình từng đã

Là Cassius ở Roma
Vilmos ở Thụy Sĩ
Desmoulins ở Paris
Ở đây – thành ai đó. 
_______
*Cassius – nhà chính trị La Mã cổ đại; Vilmos (Wilhelm Tell) – anh hùng dân tộc của Thụy Sĩ; Desmoulins Kamill – luật sư, nhà cách mạng Pháp. 

Halhatatlan a lélek

Halhatatlan a lélek, hiszem,
De más világba nem megy át,
Csak itt lenn a földön marad,
A földön él és vándorol.

Többek közt én, emlékezem,
Rómában Cassius valék,
Helvéciában Tell Vilmos,
Párizsban Desmoulins Kamill...
Itt is leszek tán valami.



NHỮNG BÔNG HOA CUỐI CÙNG


Mùa thu đang giận dữ

Xua từ trán thiên nhiên
Những bông hoa khốn khổ.
Chẳng còn hoa trên đồng
Còn hoa ở trong vườn
Cũng đang dần héo úa.

Julia giỏi quá

Gom những bông hoa tàn
Đem cắm vào trong lọ
Rồi đặt nó trên bàn
Cho anh niềm hân hoan
Và cho hoa đỡ khổ.

Nếu chết không tránh khỏi

Thì thà chết ở đây
Nơi mắt ta nhìn thấy
Và để hoa nhìn lại
Sẽ hiểu được ai người
Yêu thương hoa đến vậy.
____________
*Júlia Szendrey – vợ của nhà thơ.

Utolsó virágok

Őszi idő a javából,
A természet homlokáról
Minden szépet leragad.
Nincsen a mezőkön semmi,
Még a kertben is keresni
Kell már a virágokat.

Kis Juliskám összeszedte
És bokrétává kötötte
A maradék szálakat.
Jól tevéd, kis feleségem,
Kedvet szerzesz evvel nékem
S tán velök sem tész roszat.

Már ha úgyis halniok kell,
Haljanak hát legalább el
Itt, hol látják szemeink;
Könnyebb lesz talán halálok,
Hogyha azok néznek rájok,
Akik őket szeretik.


CHA TÔI VÀ NGHỀ NGHIỆP

Cha thân yêu, cha đã từng khuyến khích
Để con đi theo nghề nghiệp của cha
Để làm một người đàn ông bán thịt
Thế mà con lại là một nhà thơ.

Cha dùng dao búa đánh vào súc vật

Còn con đánh người bằng bút của con
Hóa ra công việc của ta chẳng khác
Có khác chăng là chỉ ở cái tên.

Apám mestersége s az enyém 

Mindig biztattál, jó apám: 
Kövessem mesterségedet, 
Mondtad, hogy mészáros legyek... 
Fiad azonban író lett. 

Te a taglóval ökröt ütsz, 
Tollammal én embert ütök - - 
Egyébiránt ez egyre megy, 
Különböző csak a nevök.




NHỮNG BÔNG HOA ĐAU BUỒN


Những bông hoa đau buồn

Giống như những bệnh nhân
Đã cận kề cái chết
Bởi mùa đông đang gần.

Như ông già đầu bạc

Rõ ràng trong mái tóc
Lá vàng từ trên cây
Lần lượt rơi xuống đất.

Ta nhìn khắp xung quanh

Cho dù nơi thôn dã
Mà không đâu thấy cả
Dù chỉ bụi cây xanh.

Hồn ơi, ta nhớ lại

Ngươi là bụi cây xanh
Mùa thu không hái nổi
Những chiếc lá trong hồn.

Và vẫn như ngày trước

Một tình yêu hạnh phúc
Vẫn trang điểm cho hồn
Bằng những cành xanh mướt.

Busúlnak a virágok

Busúlnak a virágok,
Szegénykék betegek.
Nincs messze már halálok,
Mert a tél közeleg.

Miként az aggastyánnak
Megőszült fürtei,
Ugy hullanak a fáknak
Sárgult levelei.

Hiába a vidéken
Körültekintenem,
Nincs a nagy messzeségben
Egy zöld bokrocska sem.

Van egy! majd elfeledtem...
Lelkem, te vagy, te vagy
A zöld bokor, amelyben
Az ősz nyomot nem hagy;

Rajtad folyvást teremnek
S fognak virítani
A boldog szerelemnek
Örökzöld lombjai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét